SGTT.VN -
Mỹ sẽ không ngồi yên nếu Trung Quốc gây hấn tới mức đe doạ sự ổn định
khu vực và an toàn hàng hải. Nếu vậy thì Trung Quốc cũng sẽ không thể
gây hấn, nếu tính đến tổn thất phải trả. Chủ ý gây
xung đột quân sự với Việt Nam như lời đe doạ trên tờ thời báo Hoàn cầu
chưa có khả năng xảy ra. Vì vậy không có gì lạ là ngay sau khi đe doạ
dùng vũ lực chống Việt Nam vào ngày 21.6.2011 trên báo này thì hai nước
đã họp mặt cấp cao tái tuyên bố tôn trọng 16 chữ vàng trong ngày
25.6.2011. Trung Quốc đang chơi hai lá bài nóng lạnh theo kiểu bất định
(randomizing strategies), làm Việt Nam mất phương hướng (indifference).
Hai lá bài nóng lạnh Hai
sự kiện chỉ cách nhau có bốn ngày với những tín hiệu hoàn toàn đối
nghịch nhau từ phía các cơ quan Trung ương của Trung Quốc. Sự kiện sau
là dấu hiệu tích cực, cho thấy sự giảm nhiệt trong khu vực. Nhưng nếu
nhìn kỹ hơn, tình hình hoàn toàn không đơn giản. Hãy điểm lại các sự kiện gần đây nhất: hôm 26.5.2011, chỉ vài ngày trước thềm hội nghị thượng đỉnh về an ninh
khu vực Shangri-La, tàu Bình Minh 2 bị cắt cáp. Sáng ngày 9.6.2011,
ngay sau cuộc gặp bên lề hội nghị (mà phía Trung Quốc nhấn mạnh cam kết
xử lý tranh chấp hoà bình và gìn giữ tình hữu nghị Trung – Việt), Trung
Quốc lại chủ đích cho ba tàu bán vũ trang tấn công, cắt cáp tàu Viking 2
của Việt Nam. Khi hội thảo an ninh hàng hải trên Biển Đông đang
diễn ra tại Washington (trong hai ngày 20 – 21.6.2011) thì Trung Quốc
chính thức đe doạ dùng vũ lực chống Việt Nam trên tờ Hoàn cầu (ngày
21.6.2011). Tiếp theo, ngày 25 – 26.6.2011, trong cuộc gặp mặt cấp cao
Trung – Việt, Trung Quốc tái khẳng định gìn giữ quan hệ láng giềng tốt,
cùng định hướng dư luận, tránh lời nói và hành động làm tổn hại niềm tin
của nhân dân hai nước. Nhưng ngày 25.6, ngay vào lúc phát đi các lời lẽ
đó, một tướng của Trung Quốc, Bành Quang Khiêm, phó tổng thư ký uỷ ban
Chính sách an ninh quốc gia, lại tuyên bố có thể sẽ dạy cho Việt Nam một
bài học lớn hơn (so với cuộc chiến tranh biên giới Trung – Việt 1979)
trên kênh truyền hình Trung ương Trung Quốc. Và cũng chỉ vài ngày sau,
chính quyền tỉnh Hải Nam lại ban bố lệnh cấm đánh bắt cá trên cả vùng
biển của Việt Nam, tiếp tục xâm phạm trực tiếp chủ quyền của Việt Nam.
Tự vệ đơn phương hay phòng thủ đa phương?Trong
nghiên cứu chiến lược, khi Trung Quốc chơi ngẫu hứng hai lá bài nóng
lạnh như vậy, Việt Nam sẽ bị mất phương hướng, theo nghĩa: Việt Nam cũng
bị ngẫu nhiên lái theo Trung Quốc. Cụ thể là với xác suất dương, hay
với rủi ro có thật, Việt Nam bị rơi vào “vòng tay” của Trung Quốc, mà
không thể phối hợp với Mỹ một cách thường xuyên, hay sự phối hợp chỉ có
tính nhất thời. Tức là, Việt Nam bị “nhảy” một cách ngẫu nhiên giữa hai
chiến lược: tự vệ đơn phương và phòng thủ cùng với Mỹ, ASEAN một khi có
chiến sự nổ ra bất ngờ từ phía Trung Quốc.
Có một sự rất khác
giữa trường hợp của Việt Nam so với Philippines. Philippines phối hợp
nhất quán với Mỹ cho phép tạo sức mạnh răn đe. Ngược lại, Việt Nam phải
đối mặt với khả năng (dù không phải chắc chắn sẽ xảy ra) là Trung Quốc
sẽ bất ngờ tấn công mình nếu việc tấn công giúp: (i) Tăng quyền kiểm
soát trên thực tế của Trung Quốc đối với con đường hàng hải quốc tế qua
Biển Đông. (ii) Tăng khả năng tạo tranh chấp, lan dần vào các vùng không
có tranh chấp, thông qua sự chèn ép về quyền khai thác các tài nguyên
mang tính loại trừ, cụ thể là dầu khí. (iii) Cho phép phát huy tối đa
chiến lược chơi ngẫu hứng hai lá bài nóng lạnh, sao cho: Việt Nam bị ép
vào thế buộc phải tự vệ đơn phương khi nổ ra xung đột còn Mỹ thì không
kịp trở tay hoặc không thể điều động chiến hạm, tàu sân bay tới, chỉ vì
một xung đột có quy mô xem ra là nhỏ.
Sự lựa chọn điểm và thời
điểm tấn công, thoả mãn cả ba điều kiện nói trên sẽ làm tăng cao nhất cả
lợi ích ngắn hạn và dài hạn cho Trung Quốc. Cụ thể là, tự vệ đơn phương
sẽ làm sự thôn tính xảy ra nhanh. Sau khi thôn tính, xung đột song
phương sẽ lan rộng hơn, phức tạp hơn, mà Trung Quốc có thể sử dụng tốt
nhất lợi thế vượt trội để chèn ép, đem lại lợi ích dài hạn cho Trung
Quốc. Nói rõ hơn, Trung Quốc đang lái xung đột về trạng thái song
phương, ngay trong bối cảnh có nỗ lực đa phương để kiềm chế xung đột.
Chơi ngẫu hứng để đáp trả ngẫu hứng Việt
Nam hiện nay, cũng giống như 20 năm về trước, khó có thể làm gì nhiều
để ứng phó với cách mà Trung Quốc ứng xử lá mặt lá trái, lúc nóng lúc
lạnh, khiến chính mình bị dao động giữa một bên là chiến lược phòng thủ
chung với Mỹ và ASEAN và bên kia là buộc phải ở vào thế tự vệ đơn
phương, khi bất ngờ bị Trung Quốc tấn công. Nhưng Việt Nam cũng có thể
chơi ngẫu hứng để đáp trả ngẫu hứng. Việt Nam có thể tăng cường hơn nữa
các đàm phán song phương với Trung Quốc. Đồng thời, cần hành động thực
tế hơn, nhưng ngẫu nhiên và khó xác định hơn, trong việc củng cố hợp tác
phòng thủ với Mỹ, Nhật, Nga, Ấn Độ và các nước ASEAN. Điều đó là lẽ
phải, nhằm bảo đảm sự ổn định khu vực và tự do, an toàn hàng hải. Các
phương án có thể trải rộng từ việc tăng khả năng cảnh báo sớm; tăng sức
mạnh phòng thủ ở các điểm chiến lược cho đến phối hợp tập trận, bảo vệ
an toàn hàng hải; hợp tác tuần tra trên không và trên biển thuộc chủ
quyền quốc gia; đi kèm với hoạt động nhân đạo, cứu hộ, hay khảo sát khí
tượng, nghiên cứu môi trường tự nhiên và thềm lục địa. Cách chơi ngẫu
hứng như vậy sẽ làm thay đổi kỳ vọng của các bên, kể cả Trung Quốc về
được và mất khi nổ ra xung đột; do đó ảnh hưởng tới xác suất gây ra xung
đột. Chính Việt Nam cũng có thể lái Trung Quốc trở lại thế đa phương để
giải quyết xung đột song phương. Cụ thể là khi khả năng có sự đáp trả
mang tính phối hợp quốc tế là đủ cao, thì tự nó đã tạo ra sự răn đe hữu
hiệu với các hành động gây chiến hung hăng nhất.
Việc khai thác lợi thế về thông thương và tăng cường giao dịch quốc tế chính là làm tăng giá trị kinh tế của chủ quyền và sức mạnh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam. |
Theo cách tiếp cận như
vậy, chúng ta phải mở rộng khái niệm về chủ quyền trong một thế giới
mới, mà sự liên kết kinh tế – địa – chính trị làm nền tảng vững chắc cho
cơ chế phối hợp an ninh đa phương. (Economies of scale and scope in
coordination mechanism). Dù rằng chúng ta tôn trọng và gìn giữ tình hữu
nghị với Trung Quốc nhưng việc ngồi im không làm gì, khi Trung Quốc xâm
phạm chủ quyền khai thác tài nguyên mang tính loại trừ, như đánh bắt cá
hay khai thác dầu thô tại thềm lục địa của mình thì điều đó không chỉ
làm tổn thất niềm tự hào dân tộc mà còn làm suy yếu tình hữu nghị của
nhân dân Việt Nam với Trung Quốc. Nói rõ hơn, chúng ta nên có những giải
pháp cụ thể để bảo vệ chủ quyền thông qua hợp tác kinh tế – địa – chính
trị với tất cả các nước liên đới, không chỉ riêng với Trung Quốc.
Tăng giá trị kinh tế của chủ quyền và sức mạnh bảo vệ chủ quyền Chúng
ta có thể cho thuê dài hạn, ví dụ là 100 năm, các vùng biển đảo thuộc
chủ quyền của Việt Nam cho các quốc gia như Nga, Mỹ, Nhật, nhằm khai
thác dầu thô hoặc đánh bắt cá. Các khoản thuế hoặc lợi tức từ việc cho
thuê quyền khai thác tài nguyên mang tính loại trừ này chính là biểu
hiện cụ thể về kinh tế của chủ quyền không thể bị xâm phạm của Việt Nam.
Khi mà các dạng thuế, lợi tức được ghi nhận và quyền khai thác của các
quốc gia hay công ty nước ngoài được đảm bảo theo công ước quốc tế, thì
tất yếu sẽ làm giảm các tranh chấp song phương, vì khả năng bảo vệ chủ
quyền được tăng lên. Một khía cạnh nữa là nên phối hợp khai thác
và bảo vệ tài nguyên không loại trừ như đường hàng hải chiến lược qua
Biển Đông, với hơn 1/3 giá trị thương mại toàn cầu đi qua đó. Tiềm năng
phát triển kinh tế và vị thế địa lý chiến lược của Việt Nam có thể tạo
ra sự bổ trợ lẫn nhau, cho phép Việt Nam tham dự ngày càng nhiều hơn vào
việc khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ và ngày một tăng này. Việt Nam
có thể cho thuê không cảng và hải cảng chiến lược, mà nó cho phép tăng
tính an toàn và hiệu quả, hay giảm chi phí và rủi ro trong vận chuyển
trên không và trên biển. Điều đó làm tăng sự đóng góp của Việt Nam vào
giá trị thương mại của nguồn tài nguyên không loại trừ – đường vận
chuyển quốc tế dọc theo Biển Đông. Ở đây có sự ghép nối giữa lợi ích
thương mại và bảo đảm an ninh đa phương, mà các bên liên quan đều hưởng
lợi. Vì vậy, giá trị của sự phối hợp là rất lớn. Từ các điểm nút chiến
lược ven biển, sự bùng nổ về giao dịch, vận chuyển quốc tế sẽ cho phép
các dòng vốn, công nghệ, và các phương thức tổ chức hiệu quả lan truyền
vào Việt Nam. Các nguồn lực này sẽ tạo nên sự tăng trưởng dựa trên hiệu
quả hay vốn tri thức, kéo theo sự hoà nhập mạnh của Việt Nam vào chuỗi
thương mại toàn cầu. Nói rõ hơn, việc khai thác lợi thế về thông thương
và tăng cường giao dịch quốc tế chính là làm tăng giá trị kinh tế của
chủ quyền và sức mạnh bảo vệ chủ quyền của Việt Nam.
(*) Xem từ số báo 73 ngày 1.7.2011 TS Lê Hồng Nhật